Tổng hợp và cấu tạo Kali_ferrat

Dung dịch kali ferrat

Georg Ernst Stahl (1660–1734) lần đầu tiên khám phá ra kali ferrat khi đốt hỗn hợp của kali nitrat và bột sắt, sau đó đem hòa tan trong nước, tạo ra dung dịch màu tím. Edmond Frémy (1814–1894) về sau khám phá ra phản ứng của kali hydroxit với sắt(III) oxit trong không khí tạo ra hợp chất tan được trong nước. Hợp chất này có tính chất tương tự với kali manganat. Trong phòng thí nghiệm, để tạo K2FeO4, người ta oxy hoá dung dịch muối sắt(III) trông môi trường chứa KOH và chất có tính oxy hóa rất mạnh (như natri hypoclorit đặc)[2]. Một cách nữa là điện phân dung dịch KOH với catot là sắt.

Muối này có cấu trúc tương tự K2MnO4, K2SO4,và K2CrO4. Thể rắn bao gồm cation K+ và khối anion tứ diện FeO42−, với khoảng cách Fe–O là 1,66 Å.[3] Muối bari không tan, BaFeO4, cũng được biết tới.